Thông báo liên quan đến việc bài báo “Investigation of Co-Doped ZnO Nanowires by X-ray Absorption Spectroscopy and Ab Initio Simulation” của tác giả Chu Manh Hung và cộng sự rút khỏi tạp chí Journal of Electronic Materials.
Chúng tôi rất lấy làm tiếc về việc bài báo trên của nhóm đã phải rút khỏi tạp
chí J. Electronic Mater. Lý do bài báo bị rút khỏi tạp trí không liên quan đến
chất lượng khoa học của bài báo mà do sự hiểu nhầm và không thống nhất giữa tác
giả chính (Chu Manh Hung) và đối tác hợp tác nghiên cứu (GS Carsten Ronning) liên
quan đến việc sử dụng một số kết quả thực nghiệm cũ để bổ trợ cho các tính toán
mô phỏng mới được trình bày trong bài báo của tạp chí J. Electronic Mater. Tuy
nhiên với bất kỳ lý do gì, việc bài báo bị rút khỏi tạp chí là một điều đáng tiếc
và tác giả chính xin nhận trách nhiệm về mình. Đây cũng là một bài học sâu sắc
cho nhóm tác giả cũng như các đồng nghiệp sau này trong vấn đề hợp tác nghiên cứu.
Bài báo này được đăng online vào ngày 17/01/2017, ngay khi tác giả chính
nhận được phản ánh của đối tác cũ, tác giả chính đã trao đổi trực tiếp với các
đồng nghiệp cũ và có yêu cầu với phía tạp chí rút bài báo xuống. Trong ngày
10/2/2017 tác giả nhận được thư quyết định
từ lead editor của special issue (PGS Manh-Huong Phan) và editor-in chief (GS
Shadi Shahedipour-Sandvik) như phía dưới, thời gian này trước khi ra số của
special issue khoảng 4 tháng.
Thư quyết định rút bài báo [6] khỏi tạp chí J. Electronic Mater rõ ràng
liên quan đến sự hiểu lầm, thiếu trao đổi và không thống nhất giữa tác giả
chính và đồng nghiệp cũ (vì tác giả chính cho rằng đây là bài báo về mô phỏng,
chỉ sử dụng một phần kết quả thực nghiệm trước đây để bổ trợ, nên chỉ cảm ơn
các đối tác cũ trong phần cảm ơn mà không đưa vào danh sách đồng tác giả). Nội
dung này là khác so với lý do rút bài được nhà xuất bản đưa ra ở dưới (tháng
6/2017):
“The
Publisher has retracted this article at the request of the Editor-in-Chief,
following an investigation that revealed extensive duplication of previous
publications, and premature inclusion of preliminary data supplied by
collaborators without prior approval”
Lý do rút bài mà nhà xuất bản đưa ra đúng một phần ở ý thứ hai, còn nội
dung thứ nhất không phản ánh đúng thực tế. Nhóm tác giả đang gửi thư tới editor-in chief
để làm rõ vấn đề này. Cả hai nội dung này sẽ được bình luận ở phía dưới
chi tiết hơn để bạn đọc hiểu được vấn đề.
Trước khi đi sâu về việc giải trình chi tiết, tác giả chính-người chịu
trách nhiệm về nội dung bài báo phải nhắc lại rằng, hướng nghiên cứu của bài
báo và kết quả báo cáo là của tác giả chính trước khi về công tác tại ITIMS. Các
đồng tác giả của bài báo này [6] chỉ tham gia thảo luận về các kết quả mô phỏng,
hoàn toàn không phải là người chịu trách nhiệm về nội dung liên quan đến bài
báo. Các kết quả thực nghiệm do tác giả chính thực hiện bên nước ngoài. Các kết
quả mô phỏng độc lập được tác giả tiếp tục triển khai và hoàn thiện ở Việt Nam
trước khi gửi công bố.
Về nội dung 1:
“The Publisher has
retracted this article at the request of the Editor-in-Chief, following an
investigation that revealed extensive duplication of previous publications”
Xuất phát từ các kết quả hợp tác nghiên cứu thực nghiệm của nhóm nghiên cứu
tại Pháp nơi mà tác giả chính TS Hung làm NCS trong thời gian nghiên cứu
ở nước ngoài từ 2011 đến 2014 và đối tác phía Đức (Phía Đức cung cấp mẫu; phía
Pháp trong đó TS Hưng đảm nhận các phần đo đạc, xử lý, phân tích số liệu, và cùng
nhau viết bài). Các kết quả thực nghiệm dựa trên sự hợp tác đã được hai bên
công bố trong các công trình chung [1-5].
Mặc dù các kết quả thực nghiệm được trình bày, báo cáo, thảo luận chi tiết
dựa trên những hiểu biết chuyên môn của nhóm, một số vấn đề tồn tại chưa thể giải
quyết trong các công bố trước đây là:
- Việc
mô phỏng/tính toán lý thuyết phổ hấp thụ tia X bờ hấp thụ Zn để chứng minh kết
quả thực nghiệm thu được.
- Sử
dụng mô phỏng/tính toán để định lượng số lượng khuyết tật oxy trong dây sau khi
cấy là như thế nào
Trong công trình công bố trên tạp chí JEMS, tác giả đã trình bày rõ trong
phần “Introduction” về vấn đề mới cần được giải đáp trong bài báo là liên quan
đến phần mô phỏng để giải quyết hai vấn đề trên chứ không báo cáo kết quả mới về
thực nghiệm, ví dụ như: “Although previous experimental studies,
using x ray absorption spectroscopy,12,13 reported recovery of ion
implantation-induced damage in single nanowire structures after thermal
annealing, detailed ab initio simulations of the x-ray absorption cross-section
around the Zn K edge, to confirm the experimental results, have not been
published...”. Chính vì thế trong bài này tác giả và đồng nghiệp đã tìm
cách giải quyết vấn đề nêu trên sử dụng phương pháp mô phỏng bằng phần tử hữu hạn
“finite-difference method near-edge structure (FDMNES) code in the dipolar
approximation within the full multiple-scattering (FMS) approach”
Đối tượng nghiên cứu
là hai loại dây nano bán dẫn ZnO cấy nguyên tố Co được xử lý ở các điều kiện
khác nhau:
- Dây
ZnO được cấy Co ở nhiệt độ phòng và sau đó được xử lý nhiệt ở nhiệt độ cao
(RT-implanted-PA)
- Dây
ZnO được cấy Co ở nhiệt độ cao và sau đó lại được xử lý tiếp ở nhiệt độ cao
(RT-implanted-PA). Trong bài [4] được ký hiệu HT-implanted.
Về việc sử dụng kết quả thực nghiệm của hai loại dây này để được chứng minh
bằng mô phỏng là mới và không hề có sự lặp lại với các công trình công bố trước
đây. Tác giả sẽ chỉ ra kết quả thực nghiệm nào được sử dụng lại và kết quả nào
là mới giữa bài báo đăng trên JEM và một bài đăng từ trước của tác giả [4]. Bài
báo trên Phys. Status. Solidi A 211, 483
(2014) là thuần túy về thực nghiệm và đồng thời là báo cáo kết quả thực
nghiệm của hai loại dây:
- Dây
ZnO được cấy Co ở nhiệt độ phòng và KHÔNG xử lý nhiệt (RT-implanted).
- Dây
ZnO được cấy Co ở nhiệt độ cao và sau đó lại được xử lý tiếp ở nhiệt độ cao (HT-implanted).
Rõ ràng, đối tượng nghiên cứu của bài báo [6] là mới và đã được mở rộng. Một
số dữ liệu thực nghiệm của loại dây này (HT-implanted)
được sử dụng lại để so sánh cũng như là đối tượng cho kết quả mô phỏng [6]. Xuất phát từ suy nghĩ đơn giản là các kết quả
thực nghiệm trước đây do mình đo đạc, xử lý và phân tích; đồng thời một số dữ
liệu đó đã được công bố cùng với cộng sự rồi [4] trong đó tác giả là tác giả
chính và cũng là người chịu trách nhiệm “first and corresponding author” về bài
báo đó nên trong bài này [6] với mục đích dùng một số số liệu thực nghiệm cũ -
đã xuất bản để minh chứng cho các kết quả mô phỏng mới, tác giả đã không hỏi lại
ý kiến cũng như đưa tên của các cộng sự cũ vào bài báo mà chỉ cảm ơn họ ở phía
cuối bài. Thêm vào đó, một số dữ liệu đó được sử dụng lại nhưng tác giả không lấy
giống hoàn toàn kết quả trong bài [4], những dữ liệu đó đều được xử lý lại để phù hợp cho mục đích làm
minh chứng và bổ trợ cho kết quả tính toán và so sánh với đối tượng mới. Để tránh gây hiểu
lầm cho phản biện và độc giả về việc mình báo cáo lại kết quả thực nghiệm, cũng
như nghĩ mình là tác giả chính và người chịu trách nhiệm về những dữ liệu đó
nên mình có thể được sử dụng lại với mục đích làm đối tượng cho kết quả mô phỏng mới,
do đó tác giả đã không trích dẫn bài [4] của mình vào. Sau khi nhận được phân
tích từ các nhà khoa học có kinh nghiệm, nếu như trong bài [6] có thêm các đồng
tác giả từ bài [4] thì cách làm của tác giả chính như suy nghĩ sẽ là hợp lý;
tuy nhiên trong trường hợp thực tế khi không có sự tham gia cùng của các đồng
nghiệp thì việc thiếu trích dẫn bài [4] của mình là một sai sót. Đây
là cái sai sót thứ nhất của tác giả và xin nhận khuyết điểm để tránh lặp lại trong
quá trình viết bài sau này.
Chi tiết kết quả của hai bài báo đề cập được tác giả so sánh dưới đây để
bạn đọc nhìn nhận được vấn đề được rõ ràng và khách quan hơn.
-
Liên
quan đến Hình 1 trong bài JEM, tác giả đã sử dụng một phần trong Hình 2 của bài
[4], cụ thể đó chính là Hình 2(c) và một phổ XRF trong Hình 2(a) vì dây này được
sử dụng trong việc so sanh với loại dây khác trong bài JEM. Do vậy trong bài
Hình 1 của bài JEM thì Dữ liệu của Hình 1(d) và một phổ của trong
Hình 1(b) là được sử dụng lại nhưng đã được xử lý lại để phù hợp với mục đích
so sánh (được chú thích trong hình phía dưới), còn lại các phần còn lại
trong Hình 1 là hoàn toàn mới không có sự lặp lại với kết quả trước đã công bố.
-
Đối với Hình 2 trong bài JEM, bỏ qua vấn đề về
scale và tên đơn vị trên các trục vì nó không làm thay được bản chất của vấn đề,
tùy từng mục đích mà mình để các scale khác nhau. Hình 2(a) trong bài JEM là sự so sánh kết quả thực nghiệm và mô phỏng.
Đây là kết quả hoàn toàn mới và có ý nghĩa để chúng tôi công bố công trình [6].
Trong Hình 2(b) của bài JEM được sử dụng
một phần dữ liệu trong Hình 2(a) của bài [4] để so sánh (mô tả ở Hình dưới).
- Đối với Hình 3 trong bài JEM, thì là mới không
có sự trùng lặp so với các công bố trước đây
-
Hình
4 trong bài JEM là kết quả PL và kết quả quả mô phỏng để định lượng số lượng
oxy khuyết tật trong dây nano. Hình 2(a) của bải JEM thì cũng hoàn toàn chưa được
công bố, trong Hình này tác giả đã sử dụng
01 dữ liệu "raw" trong Hình 5 của bài [4] để so sánh (mô tả ở Hình dưới). Một phổ còn
lại trong Hình 2(a) là mới và chưa được công bố. Hình 4(b) trong bài JEM thì
hoàn toàn mới là kết quả mô phỏng tính toán.
Về nội dung 2: “Premature inclusion of preliminary
data supplied by collaborators without prior approval”
Kết quả PL thì tác giả chính được phía đối tác cung cấp từ thời gian làm
PhD, và cho phép sử dụng để hỗ trợ giải thích các kết quả thực nghiệm làm bên
phía Pháp, sau khi tác giả xử lý xong và viết bài có sử dụng kết quả đó và công
bố chung cùng các đồng nghiệp trên bài [4]. Còn 01 phổ trong Hình 4(a) là không
được sử dụng cho mục đích gì từ đó đến nay. Khi có ý tưởng về việc kết hợp việc
tính toán mô phỏng để giải quyết vấn đề cho hai loại dây trong bài thì tác giả
có sử dụng, do nghĩ đơn thuần là phổ đó đã không được dùng vào các nội dung
nghiên cứu chung từ 2014 đến nay và đối tác đã trao quyền sử dụng cho mình, chính
vì thế tác giả sử dụng và không thông báo lại với họ mà chỉ cảm ơn ở phần cuối
của bài báo. Đây chính là cái sai sót thứ hai của tác giả. Tác giả xin nhận khuyết điểm này và chắc chắn
nó sẽ là bài học cho mình cũng như những đồng nghiệp trẻ trong việc hợp tác với
các đối tác sau này.
Kết luận: Việc giải trình như trên để bạn đọc biết rõ về tính mới mẻ của bài báo [6].
Tuy nhiên để xảy ra vấn đề này tác giả chính và cộng sự cũng có những sai sót nhất định
như đã nói ở trên. Tác giả xin nhận trách nhiệm về những sai sót xảy ra và sẽ lấy đó làm bài học trong quá trình hợp tác sau này. Tác giả hy vọng được cộng đồng khoa học trong nước chia sẻ, hiểu
đúng bản chất vấn đề và xin lỗi vì những phiền toái đã xảy ra.
Mọi góp ý, thảo luận về vấn đề khoa học của bài báo xin vui lòng gửi theo địa
chỉ email:
Địa chỉ email này đã được bảo vệ từ spam bots, bạn cần kích hoạt Javascript để xem nó.
, chúng tôi rất cầu thị và sẵn sàng lắng nghe mọi góp ý và trao đổi.
Thay mặt nhóm tác giả
(Tác giả chính)
Chi tiết có thể
tham khảo trên các công trình liên quan:
[1]. M.
H. Chu et al. Phys. Status Solidi RRL 5, 283 (2011)
[2]. J,
Segura-Ruiz et al. Nano Lett. 11, 5322 (2011).
[3]. M.
H. Chu et al. Appl. Phys. Lett. 103, 141911 (2013)
[4]. M.
H. Chu et al. Phys. Status. Solidi A 211, 483 (2014)
[5]. M.
H. Chu et al. Phys. Status. Solidi A 211, 2523 (2014)
[6]. M.
H. Chu et al. J. electronic materials, 46, 3317 (2017) |